Mừng Kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

1. – Các Thánh Tử Đạo Việt Nam Ga 12,20-32

Nhìn vào lịch sử, chúng ta thấy ở mọi nơi và trong mọi lúc, người môn đệ của Chúa vẫn phải chịu chung một số phận với Thầy mình, nghĩa là bị bắt bớ và bị cấm cách, bị ghét bỏ và bị giết chết. Thời nào cũng có những vị tử đạo.

Hôm nay là ngày giỗ tổ, ngày Giáo Hội Việt Nam chúng ta long trọng mừng kính các Thánh Tử Đạo, những vị anh hùng đã bỏ mình vì Chúa, đã đổ máu đào để làm chứng cho đức tin, cũng như để xây dựng Giáo Hội.

Lịch sử cho biết: Ngày 19.3.1615, hai vị thừa sai đầu tiên đã lén lút chèo một chiếc thuyền vào cửa Bạng ngoài Thanh Hóa, để bắt đầu công việc giảng đạo. Hai đấng thấy trên một mỏm đá ở giữa giòng sông hình cây thánh giá, được vẽ bằng vôi. Các đấng ấy hiểu ra rằng: Đây là dấu Chúa cho hay sẽ có bắt bớ và cấm cách. Mà thực vậy, ba trăm năm rao giảng Tin Mừng cũng là ba trăm năm máu chảy đầu rơi. Sau Giáo Hội Rôma, thì có lẽ Giáo Hội Việt Nam đã dâng cho Thiên Chúa nhiều vị thánh tử đạo hơn cả. Trên một trăm ngàn người đã chết vì đức tin, trong đó có 117 vị đã được tôn phong lên hàng hiển thánh. Vậy các ngài là những ai?

Có khi các ngài là những người giáo dân không tên tuổi, mà lịch sử chỉ ghi lại bằng những cử chỉ anh hùng. Có vị bị bắt, rồi bị lính lấy dùi nung đỏ khắc lên hai gò má bốn chữ “Giatô tả đạo”, rồi tống vào ngục. Trong ngục, ông đã tự thẹn cho rằng mình thiếu can đảm, không dám tỏ thái độ. Giatô đâu phải là tả đạo, mà là chánh đạo. Vì thế, ngay đêm hôm đó, ông đã xin bạn tù lấy dao rạch và bỏ đi hai chữ tả đạo, chỉ để lại hai chữ Giatô, thánh danh Đức Kitô mà thôi. Các chị em phụ nữ cũ không kém phần anh hùng. Có một thiếu phụ bị bắt và bị kết án voi giày. Gần tới ngày ra pháp trường, bà xin người nhà gửi vào cho bà một bộ áo cưới hợp thời trang nhất vì bà nghĩ rằng ngày bà chết là ngày bà được gặp gỡ Đức Kitô.

Phải. Các ngài là những người thuộc đủ mọi thành phần, mọi tuổi tác, mọi nghề nghiệp. Thế nhưng, các ngài đã làm gì? Các ngài là cha ông của chúng ta, đã sống trên đất nước mình, đã yêu mến quê hương mình, đã chia sẻ số phận với đồng bào của mình. Và cách riêng, các ngài đã chia sẻ niềm tin với chúng ta. Các ngài đã hiên ngang sống và làm chứng cho niềm tin, thà chết chứ chẳng thà chối bỏ Chúa: Ai tuyên xưng Ta trước mặt người đời, thì Ta sẽ tuyên xưng nó trước mặt Cha Ta, Đấng ngự ở trên trời.

Một ngày kia, các ngài đã phải chọn lựa: giữa mất và còn, giữa trung thành và phản bội, giữa sống và chết. Cuối cùng, các ngài đã chọn Đức Kitô và đã lấy máu đào làm chứng cho Tin Mừng của Ngài. Tử đạo chính là chọn Chúa và làm chứng cho Chúa. Tử đạo chính là sống đạo một cách tích cực và làm tông đồ một cách nhiệt thành. Tử đạo chính là trở nên men trong bột, muối trong đồ ăn và ánh sáng trong đêm tối.

Trong ngày giỗ tổ hôm nay, chúng ta hãy ôn cố tri tân, ôn lại chuyện cũ của các ngài, đề tìm lấy một cách sống mới, phụ hợp với tinh thần Phúc âm, để rồi chúng ta cũng sẽ trở nên là những chứng nhân cho Chúa giữa lòng cuộc đời.

2. Các Thánh Tử Đạo Việt Nam

Mừng kính các thánh tử đạo Việt Nam, chúng ta tìm thấy nơi các ngài những mẫu gương nào?

Trước hết các ngài là những đấng đã làm chứng cho niềm tin của mình. Thực vậy, trải qua hơn 300 năm Tin Mừng được rao giảng trên quê hương yêu dấu, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, từ thời hậu Lê đến thời nhà Nguyễn, Giáo Hội Việt Nam đã phải trải qua biết bao nhiêu cơn phong ba bão táp, đã phải cam chịu biết bao cuộc bắt bớ cấm cách. Biết bao nhiêu người đã phải rời bỏ gia đình và sản nghiệp tổ tiên, trốn vào những nơi rừng thiêng nước độc như giáo dân vùng Quảng Trị Lavang để bảo toàn đức tin của mình. Hàng trăm ngàn người đã bị bắt bớ, tra tấn, tù ngục và đã chết dưới những cực hình độc ác để tuyên xưng danh Chúa, trong đó 117 vị đã được tông phong lên hàng chân phước. Qua đó chúng ta thấy các ngài đã ý thức và dành cho Chúa một địa vị tuyệt đối, cũng như đã ý thức và dành cho đức tin một sự ưu tiên các ngài có thể nói lên rằng: Phải vâng lời Chúa hơn vâng lời thế gian, thà chết chứ chẳng thà phản bội Chúa. Bằng một lời nói, bằng một thái độ các ngài có thể giải thoát mình khỏi những cực hình dã man, nhưng các ngài không làm thế vì các ngài đã xác tín vào lời Chúa: Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được ích chi.

Cùng với việc làm chứng niềm tin các ngài còn là những người làm chứng cho tình thương. Tiên vàn là tình thương đối với Chúa. Các ngài đã lấy chính cái chết để nói lên sự gắn bó mật thiết với Chúa. Qua cái chết của các ngài, chúng ta thấy được một tình yêu mặn nồng như lời Chúa đã phán: Không ai yêu hơn người hiến mạng sống vì bạn hữu. Qua cái chết của các ngài, chúng ta thấy được một tình yêu thực mạnh mẽ, còn mạnh mẽ hơn cả tử thần nữa. Tiếp đến là tình thương đối với anh em, đặc biệt là những người đã gây nên đau khổ. Chúa Giêsu trên thập giá đã tha thứ: Lạy Cha, xin Cha tha cho chúng vì chúng làm chẳng hiểu việc chúng làm. Với các thánh tử đạo Việt Nam cũng vậy, mặc dù phải chịu nhiều đắng cay nhưng các ngài vẫn an ủi khích lệ lẫn nhau kiên vững trong đức tin và tha thứ cho những người đã làm cho mình phải đau khổ và chết chóc.

Sau cùng các thánh tử đạo Việt Nam là những người làm chứng cho niềm hân hoan Nước Trời. Chúa Giêsu đã phán: Ai xưng tụng Ta trước mặt người đời thì Ta sẽ xưng tụng nó trước mặt Cha Ta ở trên trời. Trong bài giảng trên núi, Chúa Giêsu cũng bảo: Phúc cho ai bị bách hại vì lẽ công chính vì Nước Trời là của họ. Và lời Chúa đã như là một động cơ thúc đẩy các ngài cam chịu mọi đắng cay và lướt thắng mọi khó khăn, vì những đau khổ hiện thời không thể nào so sánh được với niềm hạnh phúc bất diệt mà Chúa sắm sẵn cho những kẻ yêu mến và trung thành với Ngài. Các ngài đã đau khổ một thời để rồi được hạnh phúc đời đời. Thân xác của các ngài tuy đã chết, nhưng linh hồn của các ngài lại được vui mừng trong vinh quang thiên quốc và nhất là tinh thần của các ngài luôn bừng cháy trong tâm hồn mọi người để rồi chúng ta cũng đi theo dấu chân của các ngài. Đúng thế, hãy làm chứng cho niềm tin và tình thương của mình để rồi chúng ta cũng sẽ được hưởng niềm hạnh phúc vĩnh cửu như các Thánh Tử Đạo Việt Nam là những bậc cha ông của chúng ta.

3. Hạt lúa gieo vào lòng đất – Ga 12,24-26

(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Hôm ấy, có người nông dân mang thóc giống gieo trên thửa ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời nổi gió lớn. Có nhiều hạt rơi xuống ruộng bùn nhưng cũng có nhiều hạt bị gió thổi bạt lên vệ đường kề bên.

Bấy giờ những hạt giống nằm trên vệ đường khô ráo cảm thấy mình quá hên so với bao nhiêu hạt thóc bạn đang phải ngoi ngóp ngụp lặn dưới bùn, bèn tỏ lòng thương hại và an ủi các bạn thóc dưới sình bằng những lời ngạo mạn: “Đáng thương thay thân phận khốn khổ của các anh. Đang khi chúng tôi đây thì được ở nơi khô ráo ngon lành, còn các anh lại phải chìm lĩm trong vũng bùn tanh tưởi. Đang khi chúng tôi được tắm mình dưới nắng, thì các anh lại phải ngụp lặn trong chốn tối tăm. Đang khi chúng tôi được nhìn ngắm bầu trời xanh, nhìn ngắm những bông hoa tươi đẹp bên vệ đường thì các anh chẳng thấy gì, chẳng biết gì… Cuộc đời chúng tôi đầy hào quang, còn cuộc đời các anh đang tàn tạ. Bất hạnh thay cho các anh!…”

Hạt lúa ấy vừa dứt lời thì bỗng đâu có một bàn chân nặng nề dẫm đạp lên mình nó, khiến nó bị gãy đôi. Sau đó, những bánh xe từ xa chạy đến, lạnh lùng chà nát nó và những hạt lúa khác nát tan. Những hạt lúa may mắn còn nguyên vẹn lại hoá thành mồi ngon cho côn trùng và chim chóc!

Trong khi đó, những hạt lúa tưởng là bất hạnh chìm lĩm trong bùn, thì qua vài hôm sau đã ngoi lên thành những mầm non đầy sức sống. Những mầm non ấy vươn lên phơi phới, triển nở thành những bụi lúa sum suê. Không đầy ba tháng sau, từ một hạt lúa nhỏ nhoi chìm ngập trong bùn, nó trở thành những bông lúa thơm tho tuyệt đẹp, kết thành hàng trăm hạt vàng khoe mình dưới nắng.

* * *

Ai ngờ một hạt lúa bất hạnh chìm nghỉm trong bùn, tưởng chừng như đã hư thối mà nay lại chuyển hoá thành hàng trăm hạt vàng mẩy chắc ngon lành như thế! Thật là một điều kỳ diệu và là một bài học quý báu cho chúng ta. Bài học đó người đời không biết đến, nhưng Chúa Giêsu đem ra dạy chúng ta: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.”

Một bài học đơn sơ ngắn gọn nhưng lại chứa đựng một chân lý tuyệt vời.

Nhưng Chúa Giêsu không chỉ dạy chúng ta biết chân lý rồi để đó. Người muốn chân lý nầy được đem ra áp dụng để đời sống chúng ta được dồi dào phong phú hơn. Thế nên Người dạy tiếp: “Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời nầy, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”

Nói như thế, Chúa Giêsu không muốn chúng ta tồn tại như một hạt lúa nằm trơ trọi trên vệ đường khô ráo. Người muốn chúng ta hãy chấp nhận thân phận của một hạt lúa bị vùi lấp trong bùn, để nhờ đó đặt tới hạnh phúc và thắng lợi.

Khi bước chân vào đời, mang lấy thân phận con người giữa cuộc đời ô trọc, Chúa Giêsu đã chấp nhận thân phận hạt lúa bị vùi dập trong bùn đất. Người để cho người ta nghiền tán, vùi lấp Người, huỷ diệt Người. Người đời tưởng rằng họ đã tiêu diệt Đức Giêsu, xoá sổ Đức Giêsu, tưởng rằng Chúa Giêsu sẽ bị mục rã trong lòng đất… nhưng họ đã lầm. Thay vì huỷ diệt Đức Giêsu, họ đã giúp Người đạt tới vinh quang và thắng lợi. Qua cái chết, Người tiến vào cõi sống; qua thập giá Người đi đến vinh quang và hiển trị đời đời!

Theo bước chân Chúa Giêsu, các thánh tử đạo đã vui lòng chấp nhận thân phận hạt lúa bị ném xuống bùn. Các ngài chấp nhận từ bỏ vinh hoa phú quý người đời hứa hẹn, từ bỏ nhà cửa ruộng vườn, xa lìa cha mẹ vợ con gia đình thân thuộc, chấp nhận xiềng xích, gông cùm, tù ngục, đòn vọt và sẵn sàng hy sinh mạng sống, sẵn sàng đổ máu đào làm chứng cho Đức Ki-tô… Người đời tưởng rằng các ngài bị thua thiệt, bị mất mát, bị diệt vong… nhưng họ có ngờ đâu, các ngài đang khải hoàn chiến thắng và sống mãi trong hạnh phúc vinh quang. Nhờ dòng máu các ngài đổ ra, đời sống Đức tin ngày càng tiến triển, Giáo Hội được lan rộng đến khắp mọi miền đất trên thế giới. Đó là điều Chúa Giêsu đã tiên báo từ xưa: “nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.”

* * *

Hôm nay, một khi đã khám phá điều kỳ diệu của hạt lúa chìm trong bùn đất, chúng ta không sợ thua thiệt vì phải làm chứng cho Đức tin, không sợ đau khổ mất mát vì hiến thân cho lý tưởng tông đồ. Chúng ta sẵn sàng chấp nhận thân phận hạt lúa bị gieo vào bùn đất như “hạt-lúa-Giêsu”, như “hạt-lúa-các-thánh-tử-đạo”, bằng lòng chấp nhận con đường thập giá, bằng sẵn sàng hiến mình để phục vụ Tin Mừng… Nhờ đó, mai đây, chúng ta sẽ đạt tới vinh quang và thắng lợi với Chúa Giêsu như lời Người phán: “Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy” để rồi “Thầy ở đâu thì kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó.”

HY SINH MẠNG SỐNG ĐẾN CÙNG VÌ ĐỨC TIN

Lm. Phêrô Lê Văn Chính

1.- Vào ngày 19 tháng 6 năm 1988 tại Rôma, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, đã long trọng tôn phong 117 vị thánh anh hùng tử đạo tại Việt Nam. Trong số các ngài có 96 vị người Việt nam và 21 vị thừa sai Nước ngoài. Thực là một biến cố trọng đại và đầy niềm vui, vì đây là lần đầu tiên Giáo hội tôn phong một số rất đông các thánh tử đạo, và nêu lên cho toàn thể Giáo hội những con người đã không ngần ngại hy sinh mạng sống mình để làm chứng cho Thiên Chúa và Đức Giêsu, làm chứng cho Đức tin mà các ngài đã lãnh nhận với một lòng trung kiên bất khuất. Con số 117 vị tử đạo chỉ là con số nhỏ của hơn 100 000 vị tử đạo tại Việt nam trong gần 300 năm dưới thời những vua quan Triều Nguyễn từ các thế kỷ 17, 18, và 19. Thực không có bút mực nào tả xiết những đau khổ và cực hình các ngài đã chịu vì danh Chúa. Trong số các vị tử đạo, chúng ta phải kể đến những giám mục, linh mục, tu sĩ nước ngoài và cả các vị Việt nam, ngoài ra còn phải kể đến số đông những người giáo dân thuộc đủ mọi thành phần, từ những người như trùm họ, chánh trương cho đến những giáo dân, những người trong hàng ngủ quan triều đình hay binh lính.

2.- Những tâm tình của các thánh tử đạo là những tâm tình cao cả, của những con người có trái tim hòa nhập với trái tim của Con Thiên Chúa làm người, đó là những con người biết coi thường mạng sống, coi thường những danh lợi trần gian, và khi đối diện với cái chết, các ngài không ngần ngại chọn lựa dứt khóat thuộc về Thiên Chúa hơn là chút vinh quang trần thế. Thầy giảng Anrê Phú Yên 19 tuổi, đã chịu tử đạo rất sớm vào năm 1644, với sự chứng kiến của cha Đắc Lộ. Cái chết của thầy Anrê là một cái chết can đảm, thầy bị lính dùng đòng đâm ba nhát thấu ngực, nhưng vẫn chưa chết. Sau đó lính dùng mã tấu chém vào cổ đến hai nhát, đầu mới lìa khỏi cổ. Cha Đắc Lộ, dòng tên đã gói chiếc đầu của thầy giữ lại cẩn thận, và liệm xác thầy để gửi về Macau cất giữ như một báu vật của vị thánh tử đạo. Phần 117 vị thánh tử đạo, bắt đầu là hai vị tử đạo đầu tiên vào năm 1745 tại Thăng Long miền Bắc, đó là hai cha thừa sai dòng Đaminh là các cha Phanxicô Tế và Matthêu Dậu. Vị tử đạo cuối cùng là thánh Phêrô Đa, một giáo dân làm nghề thợ mộc, chịu tử đạo ở Qua Linh. miền Bắc năm 1862. Vào năm 1862, cuộc bách hại bùng lên ở miền Nam, hai nơi bị bách hại dữ dội là Biên Hòa và Bà Rịa với số người bị thiêu sống lên tới 846 vị.

Các vị tử đạo cảm nếm niềm vui chịu chết vì danh Chúa, nên trong thời gian bị gông cùm tù tội, các ngài đã biết chuẩn bị tinh thần sẵn sàng để đối diện với cái  chết. Thời gian tù tội khắc khổ không làm các ngài sợ hãi hay khiếp nhược, nhưng càng làm cho tinh thần các ngài mãnh mẽ hơn. Thánh Anrê Dũng Lạc bình thản chờ đợi để đến ngày được phúc tử đạo, ngài vui vẻ thốt lên những lời đầy hạnh phúc: “Đông qua tiết lại thời xuân tới. Khổ tạm mai sau hưởng phúc an. Làm kẻ anh hùng chi quản khó. Nguyện xin cùng gặp chốn thanh nhàn”. Trong số các vị tử đạo có những người làm quan lớn trong triều đình như thánh Micae Hồ đình Hy, hơn ba mươi năm phục vụ dưới ba triều vua, nhưng ngài đã không vì chút danh lợi trần gian mà chối bỏ đức tin, quyết một lòng trung thành với Thiên Chúa cho dù phải chịu chết. Trước những lời mềm mỏng và chiêu dụ của nhà vua, ngài vẫn một lòng khẳng khái cương trực, từ bỏ mọi vinh hoa phú quí bổng lộc của triều đình vì muốn trung thành và nên giống Chúa Kitô: “Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều vua, lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước. Nay hạ thần cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức Kitô.”

3.- Có những vị rất trẻ tuổi như chủng sinh Tôma Thiện, tuy trẻ tuổi nhưng đã bắt đầu cảm nếm niềm vui của phúc tử đạo, và đã có những chọn lựa rất can đảm và sáng suốt. Quan lớn, vì thấy thầy còn quá trẻ và khôi ngô tuấn tú, nên đã đưa ra những lời dụ dỗ và hứa hẹn nhiều phần thưởng thế gian, nhưng Tôma Thiện vẫn cương quyết một lòng, không chút sờn lòng trước những cám dỗ đường mật, thầy thẳng thắn trả lời với quan: “Đạo dạy tôi thờ Thiên Chúa là đạo thật, tôi sẵn sàng chịu chết chứ không bỏ đạo… Tôi chỉ mong chức quyền trên trời, chứ không màng đến quyền chức trần thế”. Có những vị linh mục truyền giáo cũng rất trẻ tuổi, vừa mới được bề trên sai đến và đặt chân đến nước Việt nam xa lạ thì bị bắt như cha thánh Theôphan Vena. Khi bị bắt và xét xử, quan chỉ xin ngài bước qua thập giá thì được tha bổng. Nhưng bước qua thập giá dù là một hành vi rất nhẹ nhàng để được bảo vệ mạng sống thì ngài đã cương quyết từ chối tất cả mọi mưu mô khôn khéo của vua quan. Thánh Thêôphan Vena đã cương quyết trả lời: “Tôi đã suốt đời thuyết giảng về đạo thập giá, nay tôi lại đạp lên thập giá thế nào được? Tôi thiết nghĩ sự sống đời này đâu quí hoá đến độ tôi phải bỏ đạo mà mua!”. Có những trường hợp lương tâm tế nhị và nan giải khi vua quan kết tội các ngài là theo Tây và phản bội lại tổ quốc, nhưng các ngài đã chân thành giải thích biện phân cách mạch lạc cho mọi người biết các ngài không hề phản bội tổ quốc, cũng như không hề phản bội lại vua gì cả mà các ngài luôn nhìn thấy sự thẳng thắn trong lòng tin trung kiên của mình. Các ngài vẫn một lòng trung thành với tổ quốc khi các ngài yêu mến phụng sự Thiên Chúa là Cha cao cả trên trời. Không hề bao giờ có thể vì trung thành với trung phụ là vua trần thế mà phản bội lại với Thượng phụ là Cha trên trời: “Tôi kính Thiên Chúa như Thượng Phụ, kính vua như trung phụ, và kính song thân như hạ phụ. Không thể nghe cha ruột để hại vua, tôi cũng không thể vì vua mà phạm đến Thượng Phụ là Thiên Chúa được”. Ngay cả có những vị là lính của triều đình như thánh Trần văn Trung, ngài phân biệt rất rõ bổn phận vâng phục triều đình trong những điều đúng đắn như chiến đấu chống quân thù và bổn phận vâng phục tuyệt đối với Thiên Chúa mà ngài hằng yêu mến : “Tôi là Kitô hữu, tôi sẵn sàng đi đánh kẻ thù của đất nước, nhưng bỏ đạo thì không bao giờ”.

Mừng lễ các thánh tử đạo tại Việt Nam chúng ta tự hào là con cháu các vị tử đạo. Chúng ta vui vì các bậc tổ tiên của mình đã sống thực là xứng đáng và đã kéo nhiều ơn lành của Thiên Chúa cho các con cháu. Thiên Chúa chúc phúc cho các con cháu là chúng ta vì biết bao công đức của tổ tiên ông bà chúng ta là các vị thánh tử đạo trung kiên bất khuất. Ngay cả dù không chết ở pháp trường, các ngài cũng đã sống một đời sống xứng đáng theo những mối phúc của Tin mừng. Ngày nay chúng ta không phải đối diện với cái chết tử đạo, nhưng  là con cháu các vị tử đạo, chúng ta muốn tiếp bước và được mời gọi tiếp bước các bậc tổ tiên ông bà của chúng ta trong đời sống chọn lựa trung tín với Thiên Chúa của mình. Việc tử đạo của chúng ta ngày nay là đời sống theo Tin mừng mà Chúa Giêsu đã công bố. Đây cũng là việc tử đạo vì được kết hợp nên giống với Chúa Giêsu trong những hy sinh bé nhỏ của đời sống hằng ngày.